TRINH NỮ HOÀNG CUNG
(CRINUM LATIFOLIUM)
Mô tả cây: Trinh nữ hoàng cung là một loại cỏ, thân hành như củ hành tây to, đường kính 10-15cm, bẹ lá úp nhau thành một thân giả dài khoảng 10-15cm, có nhiều lá mỏng kéo dài từ 80-100cm, rộng 5-8cm, hai bên mép lá lượn sóng. Gân lá song song, mặt trên lá lỡm thành rãnh, mặt dưới lá có một sống lá nổi rất rõ, đầu bẹ lá nơi sát đất có màu đỏ tím.
Hoa mọc thành tán gồm 6-18 hoa, trên một cán hoa dài 30-60cm. Cánh hoa màu trắng có điểm màu tím đỏ, từ thân hành mọc rất nhiều củ con có thẻ tách ra để trồng riêng dễ dàng.
Thành phần hoá học: Năm 1984, Ghosal đã phân lập và xác định từ cán hoa trinh nữ hoàng cung một Glucoancaloit có tên Latisolin. Thuỷ phân bằng Enzym thu được Aglycon có tên Latisodin. Ghosal và Shibnathcòn phân lập được từ thân hình lúc cây đang ra hoa Pratorimin và Pratosin là hai Ancaloit Pirolophenanthrindon mới cùng với những chất đã được biết như Pratorinmin, Ambelin và Lycorin.ghosal còn tách được từ Trinh nữ hoàng cung một số dẫn chất Ancaloit có tác dụng chống ung thư Crinafolin và Crinafolidin. Từ dịch ép của cánh hoa ông còn tìm được 2 Ancaloit mới có nhân Pyrrolophennanthridin là 2-epilycorin và 2-epipancrassidin.
Một số nhà khoa học Nhật Bản cũng tìm thấy một số ít Ancaloit khác từ trinh nữ hoàng cung.
Công dụng và liều dùng:
Từ những năm 1989-1990, nhân dân ta đồn nhau tìm sử dụng lá cây trinh nữ hoàng cung để chữa những trường hợp u xơ, ung thư tử cung, u xơ và ung thư tiền liệt tuyến với cách sử dụng như sau:
- Ngày uống nước sắc của ba lá trinh nữ hoàng cung hái tươi thái nhỏ ngắn 1-2cm, sao khô màu hơi vàng, uống liên tiếp trong 7 ngày, rồi nghỉ 7 ngày, sau đó uống tiếp 7 ngày nữa, lại nghỉ 7 ngày và uống tiếp 7 ngày.
- Tổng cộng 3 đợt uống là 63 lá, xen kẽ 2 đợt nghỉ uống, mỗi đợt 7 ngày.
Nhiều người chỉ uống nước sắc trinh nữ hoàng cung như trên cũng thu được kết quả tốt. Nhưng cũng có một số bệnh nhân uống thêm cùng với nước sắc trinh nữ hoàng cung một đơn thuốc bổ thận mà cũng khỏi.
Ðể tiện cho người dùng cũng như tiện cho thầy thuốc theo dõi kết quả điều trị, sau khi kiểm tra đúng các vị thuốc, chúng tôi chế thành ba dạng thuốc: Trà trinh nữ hoàng cung, Trà thuốc bổ thận, Trà phối hợp thuốc bổ thận và trinh nữ hoàng cung. Ở những nơi khí hậu quá ẩm thấp, dạng trà khó bảo quản, chúng tôi chế thành dạng nước sắc đóng ống, cũng với ba dạng như trên.
Khi uống phối hợp nước sắc trinh nữ hoàng cung với đơn thuốc bổ thận, thì cần 10 thang thuốc bổ thận. Tuần đầu uống 4 thang thuốc bổ thận, cùng với uống 7 ngày uống nước sắc trinh nữ hoàng cung. 2 tuần sau, khi uống nước sắc trinh nữ hoàng cung thì mỗi tuần uống 3 thang thuốc bổ thận.
(CRINUM LATIFOLIUM)
Mô tả cây: Trinh nữ hoàng cung là một loại cỏ, thân hành như củ hành tây to, đường kính 10-15cm, bẹ lá úp nhau thành một thân giả dài khoảng 10-15cm, có nhiều lá mỏng kéo dài từ 80-100cm, rộng 5-8cm, hai bên mép lá lượn sóng. Gân lá song song, mặt trên lá lỡm thành rãnh, mặt dưới lá có một sống lá nổi rất rõ, đầu bẹ lá nơi sát đất có màu đỏ tím.
Hoa mọc thành tán gồm 6-18 hoa, trên một cán hoa dài 30-60cm. Cánh hoa màu trắng có điểm màu tím đỏ, từ thân hành mọc rất nhiều củ con có thẻ tách ra để trồng riêng dễ dàng.
Thành phần hoá học: Năm 1984, Ghosal đã phân lập và xác định từ cán hoa trinh nữ hoàng cung một Glucoancaloit có tên Latisolin. Thuỷ phân bằng Enzym thu được Aglycon có tên Latisodin. Ghosal và Shibnathcòn phân lập được từ thân hình lúc cây đang ra hoa Pratorimin và Pratosin là hai Ancaloit Pirolophenanthrindon mới cùng với những chất đã được biết như Pratorinmin, Ambelin và Lycorin.ghosal còn tách được từ Trinh nữ hoàng cung một số dẫn chất Ancaloit có tác dụng chống ung thư Crinafolin và Crinafolidin. Từ dịch ép của cánh hoa ông còn tìm được 2 Ancaloit mới có nhân Pyrrolophennanthridin là 2-epilycorin và 2-epipancrassidin.
Một số nhà khoa học Nhật Bản cũng tìm thấy một số ít Ancaloit khác từ trinh nữ hoàng cung.
Công dụng và liều dùng:
Từ những năm 1989-1990, nhân dân ta đồn nhau tìm sử dụng lá cây trinh nữ hoàng cung để chữa những trường hợp u xơ, ung thư tử cung, u xơ và ung thư tiền liệt tuyến với cách sử dụng như sau:
- Ngày uống nước sắc của ba lá trinh nữ hoàng cung hái tươi thái nhỏ ngắn 1-2cm, sao khô màu hơi vàng, uống liên tiếp trong 7 ngày, rồi nghỉ 7 ngày, sau đó uống tiếp 7 ngày nữa, lại nghỉ 7 ngày và uống tiếp 7 ngày.
- Tổng cộng 3 đợt uống là 63 lá, xen kẽ 2 đợt nghỉ uống, mỗi đợt 7 ngày.
Nhiều người chỉ uống nước sắc trinh nữ hoàng cung như trên cũng thu được kết quả tốt. Nhưng cũng có một số bệnh nhân uống thêm cùng với nước sắc trinh nữ hoàng cung một đơn thuốc bổ thận mà cũng khỏi.
Ðể tiện cho người dùng cũng như tiện cho thầy thuốc theo dõi kết quả điều trị, sau khi kiểm tra đúng các vị thuốc, chúng tôi chế thành ba dạng thuốc: Trà trinh nữ hoàng cung, Trà thuốc bổ thận, Trà phối hợp thuốc bổ thận và trinh nữ hoàng cung. Ở những nơi khí hậu quá ẩm thấp, dạng trà khó bảo quản, chúng tôi chế thành dạng nước sắc đóng ống, cũng với ba dạng như trên.
Khi uống phối hợp nước sắc trinh nữ hoàng cung với đơn thuốc bổ thận, thì cần 10 thang thuốc bổ thận. Tuần đầu uống 4 thang thuốc bổ thận, cùng với uống 7 ngày uống nước sắc trinh nữ hoàng cung. 2 tuần sau, khi uống nước sắc trinh nữ hoàng cung thì mỗi tuần uống 3 thang thuốc bổ thận.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét